Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

TUỔI GIÀ NÊN PHIÊN PHIẾN MỌI CHUYỆN...


Tuổi Già Nên Phiên Phiến Mọi Chuyện...


Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy.
Ông thường nói rằng, ngày xưa còỆn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại. Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết. Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng-sai, có nhiều mặt khác nỆhau.

Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu: 'Mai mốt tôi già rồi thì…'Mỗi lần nghe câu đó,ông vội cắt ngang lời mẹ,và hỏi lại:'Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?' Bà cụ chỉ cười,không đáp lại.Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật.Người em ông nói:-'Theo tôi thì không có ai già,và cũng chẳng có ai trẻ.Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối.Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế.Già như sắp mua hòm được rồi.Thế mà khi tôi sáu mươi tuổi,tôi thấy các bà năm mươi là trẻ,và các bà bốn chục tuổi là bọn con nít.Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ'.

Ông Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi. Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già. Nếu mình thấy mọi người dường như trẻ lại thì chính mình già đã đi, vì mình so sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày.

Ông nói, tuổi già báo hiệu khi sinh lý bắt đầu yếu. Nhịp độ 'gần gũi' của vợ chồng thưa dần. Và đôi khi cố gắng làm vừa lòng bà vợ theo định kỳ, mà không có hứng khởi. Những khi đó, nếu bà vợ gạt ra,không cho gần gũi, thì trong lòng lại mừng húm, vì có cái cớ để không làm tròn 'bổn phận' mà không áy náy. Ông nói, bực nhất là những lúc mình đang hăng, đang nóng máu, sắp xáp chiến mà bà vợ cứ cằn nhằn về những chuyện không đâu, như cái hàng rào bị gió vật nghiêng, cây hoa hồng lá bị bạc mốc, con chó bị rận bọ chét. Thế là cả cái thân già nó xìu xuống như cọng bún thiu. Chẳng làm ăn chi được nữa cả. Ðành bỏ cuộc vui nửa chừng. Khi còn trẻ, vào những lúc sắp gay cấn như thế nầy thì dù cho sét nổ trên đầu, cũng không nghe, không biết.

Có người hỏi ông sao không dùng viên thuốc thần kỳ, làm cho vợ chồng vui như thuở ba mươi. Ông nói, đừng tin mà chết sớm, đau tim mà dùng thuốc nầy thì lăn đùng ra mau lắm. Hồi trước, ông cũng xin ông bác sĩ cho toa thuốc nầy, bác sĩ ấy không chịu. Ông cũng hơi giận, nhưng bây giờ thì cám ơn, vì biết được cái nguy hại của nó. Vui chốc lát mà bỏ mạng, lãng nhách. Theo ông thì vợ chồng già, ghiền cái hơi của nhau hơn là chuyện vật nhau lăn lộn trên giường. Chỉ cần luồn tay vào áo bà vợ già mà tìm trái mướp, cũng đủ làm cho bà ấy vui rồi.
Nói về cái tai điếc, ông bảo: -'Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa.
Không phải vậy đâu. Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng. Rồi cứ tưởng nhạc dở. Ðó là dấu hiệu già. Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ bảo oan cho mình là quá lớn'.

Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai. Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm. Không nghe, thì không bực mình, không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa. Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông chồng khéo nhịn.

Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở than thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng. Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc thì ông mừng và lắng nghe. Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây. Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi.

Ông Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc. Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói rằng, việc chi mà bực? Phải mừng chứ đừng bực. Mừng và cám ơn khoa học tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe , đã là quá quý rồi. Tuổi đã cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho. Phải biết cảm nhận và cám ơn trời

Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Ði du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không. Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu. Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào. Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm. Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ, con người ta, thì cũng bẽ bàng.
Một lần,bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông.Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên.Ông thấy có một'lão trượng' đứng nhìn ông chằm chằm,như ngầm hỏi,sao không nhường ghế ngồi cho người già cả.Ông đoán chắc, chín mươi phần là 'lão trượng' kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ. Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia. Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra mà chứng minh? Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt.

Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm.Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như thế. Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là 'đêm bảy, ngày ba' cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi. Ông nói rằng, nếu có khai trụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh ai. Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi.

Lại nữa, phong tục của mình là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà, các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi được người khác tin. Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn.

Dạo sau nầy,khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi.Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa.Ðưa cơm vào miệng không gọn gàng,cứ rớt ra vài chút.Ðôi khi tay run mà ông không biết.Ông cho đó là dấu hiệu của tuổi già.Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó,la nạt vì làm đổ thức ăn.Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ,cha mẹ hỏi đẽo làm gì,nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn,như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén gỗ.Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng,nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ,rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau viảhè,bên thềm.Nghe thế,bàvợ nhìn ông một lúc lâu,rồi rưngrưng nước mắt.Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. Ông hay quên, đôi khi đi xuống nhà kho mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu 'cái đó' mà ông trời không bắt dính chặt vào người thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài công viên; và khi cần đi tiểu thì chạy quanh, quýnh lên mà tìm không ra.Còn triệu chứng khác nữa,là làm biếng tắm,đôi khi hai ba ngày ông chưa tắm.Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm.Nhưng rồi nhận ra thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm.Vì thế có nhiều cụ già có mùi,họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen,nóng lạnh chi cũng ráng tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.

Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt.Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay.Cái đó cũng nhờ trời cho.Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy.

Nhiều ông bạn ông kiêng khem kỹ lắm,kiêng đủ thứ.Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn vàbéo.Họ ăn lạt,không dám ăn đường,ăn béo.Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức ngon của trời cho.Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp.

Một ông bạn cho biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là:
1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ,
2) thể dục thường xuyên, và
3) làm tình đều đều.

Ông không tin và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây giờ thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết.

Còn chuyện thể dục thường xuyên thì đúng trăm phần trăm.


Phần làm tình đều đều, có lẽ không ai chắc, vấn đề là còn làm được hay không, mà còn đòi đều đều. Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ. Ðừng say sưa là được. Lâu lâu cũng ráng vui vợ, vui chồng cho khỏi lạt lẽo. Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Ðó là đừng ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn. Như vậy thì ăn gì cũng thấy ngon.

Ông có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo hóa. Sợ chết là vô lý. Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn. Ai cũng sẽ chết cả. Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ.

Cứ thử nghĩ, nếu già mà không chết thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy, chậm chạp. Lấy ai làm lao động mà nuôi các cụ? Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra. Già thì phải chết để cho thế giới dược trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị được giác ngộ rồi đó. Có chi mà buồn?. Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế cho đúng hạn kỳ. Khoẻ ru.

Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết điều. Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được chết sao?. Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc.
Ông thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất. Nhưng nếu ai đó có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán. Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời. Lâu lâu phải đau vài trận để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm.Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau rêm, nhức nhối?

Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà khắc thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền đất tự do? Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có. Ðược khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp thời chạy chữa. Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ 'bói ra ma, quét nhà ra rác'. Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo. Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông được. Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra.
*
Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm. Ðừng vì một số trường hợp xấu mà sợ đi khám bệnh. Khám bệnh để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Ðể ung thư ăn tràn lan ra rồi thì chỉ có phép lạ mới cứu được. Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Ðó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường. Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá.

Ông Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh. Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú.

Ông HaiHô tập thể dục đều đặn.Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của thể dục,dù già dù trẻ.Không bao giờ trễ để bắt đầu tập thể dục.Không thể dục thì tấm thân nhão nhẹt ra,rất dễ làm mồi cho bệnh hoạn.Ði bộ trong tuổi già là tốt nhất.Còn khoẻ thì đi nhanh,yếu thì đi chậm hơn,yến hơn nữa thì chống gậy mà đi.Có vận động là tốt.Ði bộ,xương đỡ rỗng,đỡ gãy tay chân khi vấpté.Ði bộ cũng làm cho mặt mày trẻ ra,lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi. Ði bộ cũng vui, nhất là đi với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn.
Nhưng khi bàvợ bắt đầu cằnnhằn vì những chuyện không đâu,thì phải giả vờ chạy,để bà lại phiá sau,cho bà nói với cột đèn,cằn nhằn với cây cỏ.Không có vợ đi cùng thì đi với bà cụ hàngxóm cũng vui.Bà sẽ không baogiờ dám cằn nhằn ông vì những chuyện không đâu.Bà sẽ lịch sự hơn.Ði với bà hàng xóm,ông bảo,đừng sợ thiên hạhiểu lầm,cũng đừng sợ chính bà ấy hiểu lầm.Không hiểu lầm thì tốt.Hiểu lầmthì càng tốt hơn,vì làm cho bàấy vui,làm bà nghĩ làcòn sánggiá,còn cóngười ngưỡng mộ đến cái nhansắc mùathu của bà.Bà sẽ yêu đời hơn,sẽ ăn ngon,ngủ được,thế thì ông cũng đã làm được một điều thiện nho nhỏ.Ông nói,ông được nghe chuyện một bà cụ 88 tuổi, bà nói rằng,phải đi bộ,phải tập thể dục để chống lại bệnh hoạn.Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ.Bànói rằng:'Mình phải biết tự thương mình.Con cái có thương mình,chúng có thể cho tiền bạc,quà cáp,chứ không cho mình sứckhỏe được.Mình phải tự lo lấyđể mà sống cho vui,sống cho có..chất lượng.'

Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ, chứ không làm giảm. Ngoại trừ ham tập, tập quá sức thì lăn kềnh ra mà chết, mau lắm. Bơi lội là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng tuổi già, thường sợ nước, sợ lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho sức khoẻ, hại thần kinh.

Mỗi lần nghe có người than là mất ngủ, ông thường nói say sưa về bệnh nầy.Theo ông thì những người nầy, đã ngủ đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm được, mà tưởng là mất ngủ.Vì ban ngày, họ cứ thấy mệt, mắt ríu lại, là ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chừng 15 phút lúc ban ngày, có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban đêm. Mỗi đêm, người bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là đủ mạnh như gấu bắc cực. Nếu không ngủ ngày thì đêm về ngủ dễ lắm. Không phải tuổi già là mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ đêm, ngủ liên miên. Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban khó ngủ là chuyện thường.

Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ được thì dậy đọc sách,viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi tính, đọc thư bạn bè,hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có.Rồi chờ cho thật buồn ngủ, không thức nổi nữa thì vào giường nằm, sẽ ngủ được ngay, và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng. Ðừng ép giấc ngủ, ép giấc ngủ sẽ khó ngủ hơn. Cũng đừng uống thuốc ngủ. Ðại kỵ. Uống thuốc ngủ nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh. Ðừng nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu phải đếm thì đếm những người tình cũ.Mau ngủ hơn. Nếu đời chỉ có một hai người tình thôi thì đừng đếm một hai, một hai, không có lợi. Hoặc nằm mà hát trong trí những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều kỷ niệm êm ái, thân thương.
*
Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày, ngủ mà quên xem phong cảnh. Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến khách sạn thì làm sao mà ngủ thêm được nữa.Bà chị nói, đi chơi xa sợ mất ngủ.Bà ấy thực sự ngủ nhiều hơn ai cả,mà bà tưởng là mất ngủ. Một chị khác than là mất ngủ kinh niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ.Ông nhờ hết việc nầy qua việc nọ, không để chị có thì giờ mà ngủ gật. Ðêm không cho đi ngủ sớm. Mới mười giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc ngon lành dài đến sáng hôm sau.

Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng ngủ li bì, ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả. Ông truyền bí quyết là không ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ ngon.

Nhiều người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó. Khắc kỷ cũng là điều hay.

Nhưng tội gì mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi. Nên cứ xem mọi sự như trò chơi. Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn. Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo.


Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

TRÈO LÊN CÂY BƯỠI...


Trèo Lên Cây Bưởi…
Một tài liệu Lịch sử : Trèo Lên Cây Bưởi…
(Trích trong cuốn“Những điều nên biết” của Nguyễn Văn Thái)

1“Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

Em có chồng anh tiếc lắm thay!


2“Ba đồng một mớ trầu cay,

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,

Chim vào lồng biết thuở nào ra?


3“Có lòng xin tạ ơn lòng,

Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!”


Chùm thơ này đã có trong dân gian từ lâu; nhiều người tưởng rằng nó là chỉ một bài ca dao thuần túy mà đã là ca dao thì không biết ai là tác giả. Gọi nó là chùm thơ vì đây không phải là một bài mà là ba bài hợp lại, gieo theo thể liên vận, gắn với “Giai thoại Đào Duy Từ”.


Truyện kể rằng: “Năm Đinh Mão (1627), chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong phải thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương (chúa Nguyễn Phúc Nguyên) và đòi Sãi Vương phải cho con vào chầu, đồng thời phải nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền làm lễ vật cống nạp nhà Minh. Chúa Sãi không chịu nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hội họp triều thần hỏi mưu kế. Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ khuyên chúa Sãi bước đầu cứ nhận sắc phong rồi sau sẽ tìm kế đối phó.


Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê Hầu mới bàn với Sãi Vương, sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày nhiều lễ vật hậu hĩnh rồi cử Lại Văn Khuông làm sứ giả mang ra Thăng Long (Hà Nội ngày nay) tạ ơn vua Lê và chúa Trịnh.


Nhờ có chuẩn bị trước, khi ra kinh đô yết kiến chúa Trịnh, Lại Văn Khuông ứng đối rất trôi chảy. Chúa Trịnh hậu đãi, cho phép Khuông cùng phái đoàn sứ giả đi thăm kinh thành để chờ Chúa dạy bảo. Trên đường đi, Khuông lén mở cẩm nang của Đào Duy Từ trao cho từ trước. Đọc xong, Khuông cùng cả phái đoàn lẻn trốn về Nam. Thấy phái đoàn sứ giả đột ngột trốn về, chúa Trịnh sinh nghi bèn cho người đập vỡ mâm lễ, lại thấy tờ sắc phong khi trước và 1 tờ giấy viết bốn câu thơ chữ Hán sau:


“Mâu nhi vô dịch

Mịch phi kiến tích

Ái lạc tâm trường

Lực lai tương địch.”


Cả triều đình không ai hiểu ý nghĩa bài thơ. Cuối cùng, Trịnh Tráng phải cho mời một nhà nho thông thái uyên bác tới giải nghĩa. Đọc xong, nhà nho giải thích rằng:Mâu nhi vô dịch nghĩa là chữ Mâu không có dấu phẩy là chữ Dư; Mịch phi kiến tích nghĩa là chữ Mịch bỏ bớt chữ Kiến còn lại là chữ Bất; Ái lạc tâm trường nghĩa là chữ Ái để mất (lạc) chữ Tâm thì thành chữ Thụ; và Lực lai tương địch nghĩa là chữ Lực đối địch (tương địch) với chữ Lai là chữ Sắc. Vậy, gộp cả bốn chữ mới lại thành câu: “DƯ BẤT THỤ SẮC” nghĩa là “Ta không nhận sắc phong.”


Nghe xong, Trịnh Tráng vội thét lính đuổi bắt Lại Văn Khuông nhưng lúc đó, Khuông cùng cả phái đoàn đã cao chạy xa bay rồi. Trịnh Tráng muốn ra quân đánh chúa Nguyễn nhưng gặp lúc Cao Bằng và Hải Dương đều có giặc giã nổi lên nên đành phải hoãn lại. Trịnh Tráng cho người dò la biết được việc Sãi Vương không nhận sắc phong đều do một tay Lộc Khê Đào Duy Từ bày đặt ra cả. Chúa Trịnh tính kế làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa Nguyễn (Đàng Trong) về với triều đình vua Lê và chúa Trịnh (Đàng Ngoài).


Chúa Trịnh lập mưu, sai người mang nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ kèm một bức thư riêng với bốn câu thơ:



1.-“Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

Em có chồng anh tiếc lắm thay!”.


Đây chỉ là một trong các loại hoa tầm xuân(có màu xanh biếc, gần như là màu tím)
Lời thơ nói đến chuyện anh (chúa Trịnh) và em (Đào Duy Từ) thuở nhỏ, trèo cây hái hoa bưởi, bước xuống vườn cà hái nụ hoa tầm xuân. Ý thơ trong như ngọc là lời nhắn nghĩa tình nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài. Nếu trở về, sẽ được triều đình trọng dụng, còn nếu không thì ngầm ý đe dọa.


Người ta đồn rằng Đào Duy Từ đã xây mộ cho cha mẹ tại Bình Định để tránh bị Đàng Ngoài khống chế theo cách làm của Gia Cát Lượng đón mẹ của Khương Duy vào Hán Trung thuở xưa. Vì thế, Đào Duy Từ không sợ hãi chúa Trịnh trả thù và ông đã trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:


2.- “Ba đồng một mớ trầu cay,

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,

Chim vào lồng biết thuở nào ra?”

Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào nhưng thấy bài thơ chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ nên vẫn nuôi hy vọng, bèn cho người đem lễ vật nhiều hơn và mang theo lá thư của chúa Trịnh vào gặp Đào Duy Từ lần nữa. Lần này, ông mới viết nốt 2 câu kết gửi ra để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau: 3.- “Có lòng xin tạ ơn lòng, Đừng đi lại nữa mà chồng (*) em ghen!”(*) Chồng, có ý nói là chúa Nguyễn. Từ đấy, Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất miền trong, mở mang bờ cõi đất nước ta cho đến lúc qua đời…”


*****************
(Nguồn: My Opera/Danh nhân story)

Vài điều nói thêm về Đào Duy Từ

Đào Duy Từ (1572- 1634) sinh tại tỉnh Thanh Hóa. Ông rất thông minh nhưng ông không đươc dự thi vì cha ông làm nghề ca hát. Ông giận chúa Trịnh đối xử bất công cho nên ông bỏ vào Nam (dưới sự cai trị của chúa Nguyễn). Đào Duy Từ vào Nam, sống bằng nghề chăn trâu thuê cho một nhà giàu ở Bình Định.


Chủ nhà là người ham mê văn học, đã phát hiện ra Đào Duy Từ là người có tài nên đã tiến cử Đào Duy Từ cho quan Khâm lý Trần Đức Hòa. Vì mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con gái cho, đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau cuộc gặp gỡ với Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nha Úy Nội Tán.


Trong chín năm, từ 1625 đến 1634, Đào Duy Từ đã giúp chúa Nguyễn xây dựng và mở mang bờ cõi về phương nam vì ông có tài cả về chính trị, kinh tế, quân sự và văn chương thơ phú nữa.Trong cuộc chiến Trịnh– Nguyễn, ông đã xây một chiến lũy để ngăn ngừa quân Trịnh. Chiến lũy này chạy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Người dân gọi chiến lũy này là Lũy Thầy (tức là lũy do Thầy Đào Duy Từ xây dựng)./-

Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2011

CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ - NGỌN CỜ ĐẠI NGHĨA





Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ - Ngọn Cờ Đại Nghĩa


Biểu tượng chính thống dòng sinh mệnh dân tộc


Nguyễn Thế Hoàng


Tập đoàn Cộng sản Hà Nội đã tráo trở áp đặt một cách bịp bợm rằng quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ là lá cờ của các chế độ Việt Nam Cộng Hòa miền Nam để rồi vin vào cớ đó mà chỉ thị cho các tên trùm Việt cộng khát máu trong cái Tòa Đại sứ, Toà Lãnh Sự CH/XHCN/VN trên đất Mỹ trỗ tài luồn ngõ trước, lách ngõ sau, van xin lạy lục các vị Giám sát Hội đồng thành phố San Francisco, các Nghị viên Hội đồng thành phố Boston...và nhiều nơi khác để xin rút lại các nghị quyết công nhận cờ Vàng ba sọc đỏ là biểu tượng truyền thống tự do, dân chủ của khối người Việt quốc gia tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại.


Một hiện tượng lạ lùng và buồn cười đã và đang xảy ra như vậy mà từ xưa đến nay chưa bao giờ có trên một đất nước nào, cái mà người ta gọi là một Chính phủ có đất, có dân để cai trị, có bang giao các nước, có quốc kỳ, vậy mà lá cờ máu màu đỏ sao vàng không được phép hay không được quyền treo tại bất cứ nơi nào, ở đâu, và lúc nào trên quốc gia có bang giao, mà chỉ thấy lèo tèo, lấp ló, thậm thụt trên đầu ngón tay ở những chỗ các tên VC khát máu trú ngụ. Trong lúc ấy thì ngọn cờ đại nghĩa, chính thống nền vàng ba sọc đỏ vẫn ngạo nghễ tung bay trên lảnh thổ các tiểu bang Hoa kỳ, trên khắp vòm trời thế giới và một ngày không xa lắm sẽ tái chiếm vùng trời đất Mẹ Việt Nam.


Lịch sử dân tộc Việt Nam rành rành ai mà không biết nguồn gốc lá cờ Vàng đại nghĩa, vậy mà tập đoàn Cộng sản Hà Nội cứ phớt lờ một cách vô tình hay cố ý, hoặc cũng tại vì chui rúc trong rừng sâu núi thẳm quyết tâm tu luyện hóa kiếp cáo chồn, ngủ hang Pắc Pó, ăn lá cây rừng, uống nước suối đục, lâu ngày chày tháng đâm ra mụ người, ngớ ngẩn, không nắm bắt kịp đà tiến hóa của nhân loại, mà bô bô khoác lác lá cờ Vàng ba sọc đỏ là cờ của "ngụy quyền, ngụy quân, ngụy dân, ngụy chính phủ, của một chế độ miền Nam bại trận" (sic) , chính đó là luận điệu và hành vi cưỡng từ đoạt lý của kẻ tự nhận mình chiến thắng.


Trước hiện tượng cờ Vàng ba sọc đỏ đã được các chính quyền thành phố, các tiểu bang của Hoa Kỳ công nhận là lá cờ di sản, tự do của người Việt tỵ nạn được treo cùng ngang hàng với cờ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, cờ cácTiểu Bang khắp mọi nơi, các tượng đài kỷ niệm chiến binh Việt Mỹ được dựng lên ở các thành phố ....đã làm cho đảng Cộng sản Việt Nam điên đầu, lo sợ, mất ăn mất ngủ, đến nổi phải la hét ầm ỉ, lãi nhãi lên rằng những hiện tượng đó là '' một xúc phạm'' và '' không thể chấp nhận được''.


Ai xúc phạm ai ??! Cờ đỏ sao vàng là gì ?


Ngày 2/9/1945 Hồ chí Minh thành lập cái chính phủ gọi là VNDCCH, lấy đảng kỳ nền màu đỏ, một ngôi sao màu vàng ở giữa của cái tổ chức '' Việt nam Độc lập đồng minh Hội'' tức Mặt trận Việt Minh, tiền thân của đảng Cộng sản Đông dương làm quốc kỳ cho nước. Lấy cờ của một tổ chức, một đảng phái để làm cờ Tổ Quốc là một sự áp đặt thô bạo và xúc phạm trắng trợn lên tinh thần, tâm tư, và tình cảm của một dân tộc.


Cờ đỏ sao vàng lại là lá cờ phỏng theo đảng kỳ của đảng Cộng sản Liên sô, đảng Cộng sản Trung quốc, biểu tượng cho một chế độ độc tài đảng trị, một chế độ làm tay sai và đánh thuê cho ngoại bang, một chế độ mang chủ thuyết ngoại lai Mác-xít - Lênin-nít - Mao Trạch Đông - áp đặt, nhồi nhét làm đảo lộn truyền thống văn hóa chính thống, cổ truyền và tác hại giá trị nhân bản của dân tộc Việt Nam qua 4000 năm dựng nước, giữ nước.


Cờ đỏ sao vàng được mệnh danh là lá cờ máu, máu của hằng triệu người dân lương thiện, vô tội đã đổ ra tẫm liệm, kết tụ bao oan khiên chưa được giải thoát bởi bàn tay sắt máu hung tàn của tập đoàn Cộng sản VN đã thảm sát, đã thủ tiêu cực kỳ man rợ khủng khiếp ở những thời điểm năm l945 cướp chính quyền, trong phong trào cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, trong 21 ngày tắm máu của gần sáu ngàn sinh linh bị thảm sát tập thể trong Tết Mậu Thân ở Huế, trong cái gọi là tổng công kích Tết Mậu Thân, trong rừng thẳm núi cao, dưới lòng đại dương sâu thẳm, trong các trại lao tù khổ sai trải dài từ Nam ra Bắc sau tháng tư 1975....!!


Lá cờ đỏ sao vàng biểu tượng cho tội đồ phản quốc, bội phản dân tộc, bội phản tiền nhân, đê hèn cắt đất cắt biển của Tổ Quốc dâng cho quan thầy phương Bắc, mãi quốc cầu vinh.


Cờ đỏ sao vàng là nguyên nhân cho sự nghèo đói, bệnh tật. dốt nát, chậm tiến, lạc hậu, đem đất nước và dân tộc thụt lùi lại thời trung cổ. Vì dưới lá cờ đó qua hơn năm thập niên gọi là '' đi làm cách mạng cứu nước cứu dân'' và qua '' 30 năm thống nhất lảnh thổ'' mà dân tộc VN vẫn còn nghèo đói và bệnh tật.


Cờ đỏ sao vàng là hiện thân của hận thù giai cấp, là mầm mống tiêu diệt những thành phần không phải Cộng sản, những tinh hoa, trí thức, chất xám, những thành phần giàu có, tư bản, những phần tử đối lập, những nhà cách mạng chân chính....Hồ chí Minh và đảng CSVN phát động, thổi phồng , nuôi dưỡng hận thù giai cấp đưa vào lòng dân tộc VN tạo mầm mống chiến tranh tương tàn khốc liệt Quốc Cộng để tiếp tay nhuộm đỏ quốc gia VN và thế giới dưới sự chỉ đạo của cộng sản quốc tế.


Cờ đỏ sao vàng là bóng dáng khủng khiếp kinh hoàng, là tiêu biểu cho sự đàn áp, sự thủ tiêu vô cùng dã man của tập đoàn CSVN qua các vụ cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, đánh phá tư sản từ miền Bắc và sau tháng 4/75 vô tận miền Nam khiến cho bao triệu người dân mất nhà, mất đất, mất ruộng, mất tất cả tài sản, mất mạng sống, bị thủ tiêu, bị chôn sống, bị mất người thân, giam trọn cuộc đời trong lao tù, trong trại cải tạo, hoặc vùi thân dưới lòng đất lạnh. Nó biểu tượng cho hành động bắt người giam giữ trái phép, độc đoán, vô pháp luật, lộng hành, đàn áp tôn giáo, triệt hạ tín ngưỡng, chà đạp nhân quyền, hãm hại những người yêu nước chân chính, các bậc chân tu, giới trí thức cấp tiến, bao che và nuôi dưỡng tệ nạn tham nhũng từ trên xuống dưới. Nó biểu tượng một chính quyền Cộng sản là một chính quyền khủng bố và sát hại nhân dân.


Cờ đỏ sao vàng được rập khuôn theo đảng kỳ búa liềm của cộng sản quốc tế và sau đó thêm một ngôi sao là biểu hiệu quân đội nhân dân Liên sô cướp chính quyền. Nó không mang một ý nghĩa chính thống và truyền thống của dân tộc VN, không do quốc dân lựa chọn, mang ảnh hưởng ngoại lai, chịu sự chỉ đạo và khống chế của khối cộng sản Liên sô và Trung Cộng , phi dân tộc, phi tổ quốc. Kể từ năm 1991 lá cờ đỏ sao vàng này đã rách nát tã tơi nằm yên trong sọt rác khi mà khối Cộng sản liên bang Sô viết, khối cộng sản Đông Âu tan đàn rã gánh. Cho đến 10 năm sau, cựu tổng bí thư Gorbachev đã tự nhận '' Các nhà lảnh đạo Cộng sản chỉ biết điều hành quốc gia trong sự lừa dối, phĩnh gạt.'' Và Nguyễn hửu Thọ trước khi nhắm mắt cũng đã than thở với Trần bửu Kiếm " Thấy sai mà không được sửa, thấy tội ác mà không được tránh, tất cả chỉ biết cúi đầu tuân theo lệnh đảng ". Vậy mà CSVN cho đến ngày hôm nay vẫn khư khư ôm lấy lá cờ máu tanh hôi để tiếp tục khống chế và áp bức dân tộc, buộc mọi người phải phục tùng, suy tôn một biểu tượng đầy cường quyền bạo lực tạo những tai ách quá khủng khiếp trong lịch sử VN, chà đạp lên Hồn Non Nước, chà đạp và làm băng hoại truyền thống đạo đức chính thống của dòng sinh mệnh Việt tộc. Chính đó là sự nghịch lý đối với lịch sử sẽ phải bị đào thãi.


Đã nghịch lý thì không thể đồng dạng, song hành mà phải ngược chiều, đối nghịch ngọn cờ đại nghĩa nền Vàng ba sọc đỏ, ngọn cờ chính thống đã và đang cưu mang nuôi dưỡng dòng sinh tồn dân tộc đã có từ nghìn xưa, phát sinh từ lúc Triệu Nữ Vương cùng anh là Triệu Quốc Đạt năm 248 (sau TL) khởi binh đánh quân Ngô, và theo sách Việt Nam Quốc Sử diễn ca, bà Triệu đã dùng ngọn cờ Vàng làm biểu tượng cho chính nghĩa quốc gia và dân tộc, nên mới có câu "Đầu voi phất ngọn cờ Vàng". Triệu Nữ Vương cưỡi voi, mặc áo giáp màu Vàng xông trận chiến, xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân.


Lịch sử Việt Nam trải dài qua các thời đại nước nhà độc lập tự chủ, Vua là Thiên tử tiêu biểu cho quyền uy của một quốc gia độc lập, tự chủ, thống nhất, và có chủ quyền. Màu Vàng truyền thống vẫn được sủng ái và tôn quý dành riêng cho Hoàng tộc, biểu tượng cho uy quyền và chính nghĩa của triều đại.


Đến triều nhà Nguyễn, vua Khải Định(1916-1925) lá cờ Vàng được thêm một sọc đỏ ở giữa lá cờ, bề ngang sọc đỏ bằng 1/3 bề ngang lá cờ, gọi là cờ Long Tinh, được xử dụng tại Bắc và Trung kỳ. Nam kỳ còn thuộc Pháp đô hộ, vẫn sử dụng cờ tam sắc của Pháp.


Thời Hoàng đế Bảo Đại, vị vua cuối cùng nhà Nguyễn, lá cờ Long Tinh được cải đổi, nền cờ vẫn màu Vàng, có thêm ba sọc đỏ ở giữa theo như quẻ LY (sọc đỏ giữa đứt đoạn) và được chính phủ Trần Trọng Kim ban bố ngày 8/5/1945.


Năm l948, Hoàng đế Bảo Đại cùng với đại diện các đoàn thể chính trị, tôn giáo, thân hào nhân sĩ trong nước họp tại Honkong đã chọn quốc kỳ chính thức cho Quốc Gia Việt Nam do họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ kiểu. Đó là lá cờ quốc gia, nền màu vàng, ba sọc đỏ ở giữa lá cờ, sọc đỏ ở giữa liền nhau, đã được Nguyễn Văn Xuân, Thủ tướng Chính Phủ lâm thời quốc gia Việt Nam ban bố ngày 2/6/1948.


Như vậy cờ Vàng ba sọc đỏ không phải là cờ riêng của nền đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa, không phải là cờ của "ngụy quân, ngụy quyền, của chế độ miền Nam bại trận trong tháng tư năm l975 " theo như những áp đặt lếu láo, những gán ghép hồ đồ của tập đoàn CSVN. Các chế độ VNCH vẫn phải có trách nhiệm tiếp tục bảo vệ và vinh danh lá cờ vàng đại nghĩa, lá cờ truyền thống, chính nghĩa đã có từ trước của dân tộc Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền sống con người, quyền lợi dân tộc, quyền lợi của quốc gia, giữ vững biên cương bờ cõi của Tiền Nhân để lại, chống mọi áp bức, bất công để cho người dân an cư lạc nghiệp, đất nước giàu mạnh, phú cường. Vinh danh cờ Vàng ba sọc đõ biểu tượng cho một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và nhân quyền đã phát xuất từ ngàn xưa, là mạch sống của dân tộc Việt, kết tụ hồn thiêng sông núi, anh linh liệt sĩ tiền nhân, ấp ủ máu xương của bao triệu người dân nước Việt đã nằm xuống để bảo vệ giang sơn tổ quốc, để bảo vệ lý tưởng tự do dân chủ, nhân quyền và các quyền sống của con người đã được quy định trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự Và Chính Trị.


Đất Nước dưới sự kềm kẹp bóc lột của bạo quyền CSVN người dân đang phải chịu trong cảnh nghèo đói và bệnh tật triền miên, nhưng hầu hết 84 triệu dân Việt Nam vẫn ấp ủ trong tim khối tình cảm thiêng liêng hướng về với ngọn cờ đại nghĩa dân tộc, chờ một ngày sẽ ngạo nghễ tung bay trên vòm trời Tổ quốc. Trong lúc đó gần ba triệu người Việt tỵ nạn tại hải ngoại, đang rầm rộ phát động chiến dịch vinh danh ngọn cờ Vàng đại nghĩa dân tộc, biểu tưọng cho truyền thống tự do dân chủ của người Việt tỵ nạn tại hải ngoại.


Từ sự thừa nhận lá cờ Vàng đại nghĩa của các chính quyền thành phố, tiểu bang, không những người Mỹ vinh danh lá cờ Vàng là lá cờ tự do, dân chủ của người Việt tỵ nạn hải ngoại, mà họ còn khẳng định đó là lá cờ di sản, truyền thống và chính nghĩa của dân tộc Việt Nam và xác quyết rằng lá cờ chính nghĩa quốc gia sẽ chinh phục thế giới để tạo áp lực đưa đến những thay đổi chính trị trong nước, điều mà CSVN đang run rẩy lo sợ trước sự kiện không thể nào đi ngược lại được trào lưu dân chủ hóa hiện nay trên toàn cầu. Vì vậy, CSVN ra sức la ó, phản ứng mạnh, làm áp lực Bộ Ngoại giao, Chính phủ Hoa Kỳ đòi các Chính quyền thị xã, tiểu bang phải hủy bỏ một cách thật buồn cười các nghị quyết công nhận lá cờ Vàng, ngang nhiên can thiệp vào sinh hoạt tự trị nội bộ của người dân Hoa kỳ trong từng thị xã, tiểu bang, vi phạm trắng trợn công ước quốc tế về ngoại giao và lảnh thổ.


Vận nước đang hồi chuyển động phải đổi thay. Chính nghĩa phải thắng tà nghĩa. Hơn hai thập niên, quân dân miền Nam VN đã chiến đấu và hy sinh xương máu cho một chiến trường đẩm máu dưới ngọn cờ đại nghĩa dân tộc, giờ đây đã được phục hồi từ nhiều phía một cách hào hùng và dũng cảm.


Mặc dầu Hoa kỳ cỗi bỏ cấm vận, trao đổi quan hệ ngoại giao với CSVN, đó chỉ là chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhưng Hoa kỳ vẫn nhìn CSVN là một cựu thù với những lầm lỗi đã tạo biết bao nhiêu đau thương mất mát cho hơn 58 ngàn quân nhân Hoa kỳ và hàng ngàn chiến binh của các quân đội đồng minh từng chiến đãu sát cánh với quân dân miền Nam dưới lá cờ Vàng đại nghĩa dân tộc trong nghĩa vụ bảo vệ miền Nam VN như một tiền đồn ngăn chặn làn sóng xâm lăng của khối Cộng sản. Hoa Kỳ vẫn liệt kê CSVN là đồng minh tiếp tay với chế độ độc tài khủng bố Shadam Hussein, Iran, Bắc hàn...đã và đang gieo rắc chết chóc tang thương cho nhân loại.


Trong những hoạt động ngoại giao về các quyền lợi, đặc ân mà Hoa kỳ ban phát cho CSVN vẫn được phía Mỹ khuyến cáo Hà Nội phải thực thi nhân quyền, tự do tôn giáo, thả hết tù chính trị, trí thức yêu nước, các nhà hoạt động dân chủ, các vị chân tu...Nhưng chế độ cộng sản là một chế độ phi nhân, phi nghĩa, bản chất người CSVN là lừa dối, bịp bợm, phản trắc, vì vậy người dân trong ách thống trị ác nghiệt của chúng chưa bao giờ nhìn thấy và chưa hề được hưởng quyền sống của con người mà Thượng đế đã dành sẳn cho người, cũng như nhân loại đã có quy định trong các công ước qưốc tế.


Việc chấp nhận tuyệt đối lá cờ Vàng ba sọc đỏ của quốc gia Việt Nam được treo ngang hàng với cờ Hiệp Chũng Quốc Hoa Kỳ tại bất cứ nơi nào trên lảnh thổ, nhân dân Hoa Kỳ đã trực diện công khai cho thế giới và nhất là cho CSVN biết rằng nghĩa vụ tự do dân chủ mà Hoa Kỳ đã thực hiện để bảo vệ miền Nam VN ngày trước đang còn bỏ dở khiến cho toàn cõi Việt Nam đã bị cộng sản cưỡng chiếm thô bạo, và món nợ này, hay nói cách khác, nghĩa vụ tinh thần cho một Việt Nam tự do, dân chủ, nhân quyền đối với toàn dân Việt Nam yêu chuộng tự do và trước hương linh tử sĩ Việt Mỹ đã hy sinh cho chính nghĩa sẽ phải được phục hồi.


Tóm lại, bảo vệ, duy trì và vinh danh lá cờ Vàng ba sọc đỏ là ngọn cờ đại nghĩa, chính thống, là lá cờ truyền thống của dân tộc Việt Nam đã có từ lâu đời theo dòng sinh mệnh của dân tộc, được biểu tượng cho tự do, dân chủ của người Việt hải ngoại, cho Hồn Non Nước đối với người dân trong nước đang thao thức mong đợi một ngày Đất Nước bừng sáng rợp ánh cờ Vàng.


Không ai phũ nhận rằng khi chúng ta nhìn thấy lá quốc kỳ VN nền vàng ba sọc đỏ ngạo nghễ tung bay giữa bầu trời tại hải ngoại, hoặc được dự những lễ chào quốc kỳ, quốc ca ở các buổi sinh hoạt chính trị, sinh hoạt cộng đồng....tình cảm của chúng ta nao nao rạo rực đến rơi lệ, và lòng tràn ngập niềm tin một tương lai tươi sáng cho dân tộc và đất nước Việt Nam sẽ được hồi sinh trong vinh quang.


Ngọn cờ Vàng đại nghĩa tuy đã có bị hiếp đáp, nhưng nó không bao giờ bị tiêu diệt, nó vẫn đang sống và đang vùng lên theo trào lưu tiến hóa của nhân loại, xu thế chính trị toàn cầu.


Ngược lại, cờ đỏ sao vàng là loại cờ máu đã gây bao thảm cảnh mưa máu gió tanh, đã gây nên bao khiếp đảm kinh hoàng triền miên cho cả một dân tộc Việt Nam từ Bắc vào Nam, đã tàn sát bao sinh linh vô tội sinh bắc tử nam. Lá cờ máu màu đỏ sao vàng là lá cờ mang biểu tượng cho sự chết. Nó đã chết trên chính sự chiến thắng bạo tàn và giả tạo của chính nó, nó đã chết trong oan khiên réo gọi, nó đã bị chà đạp xé nát vứt vào sọt rác, nó đã được sử dụng hốt gọn thây ma rữa nát tanh tưởi hôi thúi của tên tội đồ Hồ chí Minh để ném xuống biển Đông theo quy luật ''Thiện ác đáo đầu chung hửu báo'' .


Chân lý muôn đời vẫn là một :'' Đem Đại Nghĩa để thắng Hung Tàn, Lấy Chí Nhân mà thay Cường Bạo'' .(Nguyễn Trải).


Phất cao ngọn cờ vàng đại nghĩa chính thống dân tộc để Đất Nước Việt Nam thân yêu được hồi sinh trong Ánh Sáng Tự Do Dân Chủ , để cho toàn dân Việt Nam chung lưng xây dựng một Xã Hội Nhân Bản và cho Dòng Sinh Mệnh Việt Tộc trường tồn mãi mãi với thời gian...!!


8/2003


Nguyễn Thế Hoàng





Thứ Năm, 3 tháng 2, 2011

CHÚC MỪNG NĂM MỚI - TÂN MÃO - 2011



CHÚC MỪNG NĂM MỚI
XUÂN TÂN MÃO - 2011
Trang Nhà NGUYỄN THẾ HOÀNG
Kính chúc :
Qúy Chiến Hửu
Qúy Thân Hửu
Qúy Dộc Giả
Qúy Đồng Hương
Dồi dào sức khỏe - Vạn sự như ý - An Bình Thịnh Vượng
trong năm Tân Mão nơi đất khách quê người.
Nguyễn Thế Hoàng





Thứ Bảy, 15 tháng 1, 2011

LỜI TIÊN BÁO THỨ 3 - BÍ MẬT FATIMA

LỜI TIÊN BÁO THỨ 3 - BÍ MẬT FATIMA

Điều chắc chắn là Giáo Hội Công Giáo lúc bấy giờ có hứa sẽ chỉ mạc khải BÍ MẬT THỨ 3 này sau khi những biến cố đã xảy ra, ít nhất là những biến cố được đề cập sau đây.

1- Sau Đức Thánh Cha PIÔ VI, sẽ có 12 vị Giáo Hoàng hoàn tất được triều đại của mình. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là vị thứ 12.

2- Vị tiền nhiệm của ngài (vị thứ 11) có một triều đại rất ngắn : Đó là Đức Giáo Hoàng Phaolô I đã băng hà sau 1 tháng được bầu lên Giáo Hoàng.
3- Vị Giáo Hoàng thứ 12 có một triều đại dài : Đó là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trị vì 27 năm, từ năm 1978 đến năm 2005. Đó là vị Giáo Hoàng dài thứ ba trong lịch sử Giáo Hội hoàn vũ.

4- Vị kế tiếp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II theo lời tiên báo sẽ gây nên một cuộc cách mạng trong chính Giáo Hội Công Giáo (???)

GIÁO HỘI CHO PHÉP MẠC KHẢI BÍ MẬT THỨ 3 CỦA FATIMA

Giáo Hội đã cho phép mạc khải cho các tín hửu một phần bí mật FATIMA. Đức Mẹ Maria đã hiện ra với 3 đứa trẻ vào năm 1917 và cuộc hiện ra này đã được xác định bởi những biểu hiện phi thường mà hằng chục ngàn người đã chứng kiến. Một trong ba đứa trẻ còn sống cho đến những ngày gần đây là LUCIA (Soeur LUCIE) nữ tu thuộc Dòng KÍN ở Âu Châu. Lúc đầu chị Lucia đã loan báo thông điệp này cho Đức Giáo Hoàng Piô XII. Khi đọc xong, Đức Thánh Cha đã run, và quyết giữ bí mật, không phổ biến. Đến Đức Giáo Gioan 23 cũng đã đọc và Ngài cũng không phổ biến.Các Ngài đã làm như thế vì các Ngài biết rằng nều phổ biến những bí mật thì sẽ gây hoãng loạn, tuyệt vọng trên thế giới.

*** ĐÂY LÀ PHẦN KHÁC CỦA MẠC KHẢI, KHÔNG PHẢI ĐỂ GÂY SỢ HÃI NHƯNG CHÚNG TA PHẢI BIẾT ĐỂ CHUẨN BỊ

Đức Mẹ đã nói với chị LUCIA :”- Con xem, Mẹ đã chỉ cho thế giới biết những gì đã xảy ra từ năm 1950 đến năm 2001, nhưng người ta vẫn không quyết tâm thực thi 10 điều răn mà Cha chúng ta đã ban.

SATAN dẫn dắt thế giới, gieo rắc hận thù và bất hòa khắp nơi. Người ta đã làm nên những vũ khí giết người và trong vòng vài phút có thể hủy diệt toàn bộ thế giới. Một nửa nhân loại sẽ bị hủy diệt một cách khủng khiếp, chiến tranh sẽ bắt đầu. Sẽ có những chống đối giữa các dòng Tu với Rôma. Thiên Chúa cho tất cả các hiện tượng tự nhiên như : khói - mưa đá - băng giá - nước - lửa - lụt lội - động đất – sóng thần - thời tiết khắc nghiệt - những thiên tai khũng khiếp - những mùa Đông cực lạnh dần dần kết thúc địa cầu. Những hiện tượng này sẽ xảy đến chung quanh năm 2000 trở đi. Những người nào không muốn tin thì đây là cơ hội để tin.

Mẹ Chí Thánh của Nhân loại đang nói với họ đây :

Hãy thực thi bác ái với người Anh Em đang cần sự giúp đở. Những kẻ không yêu thương nhau như chính Con của Mẹ đã yêu thương chúng. Một số kẻ này có thể sống sót, nhưng chúng lại muốn chết. Hằng triệu người này sẽ mất mạng trong vòng vài giây. Loại hình phạt trước mắt chúng ta không thể tưởng tượng được và chúng sẽ thấy và không ngờ đến. Chúa chúng ta sẽ sẽ phạt một cách khắt khe những kẻ không tin Người., những kẻ chối bỏ Người, những kẻ không dành thì giờ cho Người.

Mẹ kêu gọi tất cả những ai đến cùng Con của Mẹ, Thiên Chúa là Đấng cứu giúp thế giới, Nhưng tất cả những gì không làm chứng cho lòng trung thành và ngay thẳng sẽ bị hủy diệt một cách khũng khiếp.

Cha Augustin sống tại Fatima đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho phép đến thăm chị Lucia, lúc đó đã là Nữ Tu một Dòng Kín, không được ra ngoài và tiếp khách. Cha Augustin đã nói là chị Lucia đã tiếp Cha với một trái tim tan nát. Chị Lucia nói :” - Cha ơi ! Đức Mẹ rất buồn vì hầu như không ai quan tâm đến lời tiên báo của Mẹ vào năm 1917. Những người tốt phải đi vào con đường hẹp. Những người xấu sẽ đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong. Xin Cha tin con. Sự trừng phạt sẽ sớm đến. Có nhiều linh hồn sẽ hư mất và nhiều quốc gia sẽ biến khỏi mặt đất.

Nhưng dầu vậy, nếu loài người biết suy nghĩ và cầu nguyện để trở lại làm việc lành thì thế giới có thể được cứu vãn. Còn ngược lại, họ cứ ở trong tình trạng bệnh tật thì thế giới sẽ hư mất và tiêu diệt vĩnh viễn.”-

***

Đã đến lúc phải truyền đạt thông điệp của Đức Mẹ cho người quen biết – cho bạn hửu – cho bạn của họ - và cho tất cả thế giới biết.

Hãy bắt đầu cầu nguyện, nâng tâm hồn lên, hãy ăn năn sám hối, hy sinh và hãm mình. Chúng ta đang đến rất gần thời gian cuối cùng và tai họa cũng đang đi tới gần. Chính vì thế, có rất nhiều kẻ đang ở xa sẽ trở về trong vòng tay của Giáo Hội Chúa Kitô. Những quốc gia như Anh – Nga – Trung quốc…v..v…tất cả những người Chân tu, người Tin Lành, Đạo sĩ, người Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái Giáo…v..v…sẽ trở lại và tin vào Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô và trong Mẹ Chí Thánh của Ngài.

Nhưng chúng ta sẽ phải chờ đợi điều gì ? Ở khắp mọi nơi người ta đang nói đến hòa bình – yên ổn…nhưng hình phạt sẽ đến !!




*** Một Nhân Vật rất cao cấp sẽ bị ám sát và điều đó sẽ xảy ra chiến tranh.
*** Một đạo binh hùng mạnh sẽ đi ngang khắp Âu châu và chiến tranh hạt nhân sẽ bắt đầu

Trận chiến tranh này sẽ hủy diệt tất cả. Bóng tối sẽ bao trùm trái đất trong vòng 72 tiếng đồng hồ. (3 ngày). Gần 1/3 nhân loại còn sống sót sau 72 giờ đen tối và kinh hoàng này và những ai bắt đầu sống trong giai đoạn mới sẽ là người tốt.

Vào 1 đêm rất lạnh, 10 phút trước nửa đêm (giờ khuya) một trận động đất lớn sẽ làm rung chuyển trái đất trong vòng 8 tiếng đồng hồ. Đó là dấu hiệu thứ 3 của Thiên Chúa, Đấng cai quản trái đất.

Những người tốt lành, những kẻ loan báo Thông điệp, Lời tiên tri của Đức Trinh Nữ Maria ở Fatima không được run - không được sợ hãi - và phải làm gì ?
- Hãy qùy xuống và xin lỗi Chúa. Đừng ra khỏi nhà và không để ai lạ vào nhà. Bởi vì chỉ những người tốt lành mới không bị sự dữ thống trị và sẽ được sống sót sau cơn đại họa này. Để cho các con có thể chuẩn bị
và còn sống sót như những người con của Mẹ, Mẹ sẽ
cho các con biết những dấu hiệu sau đây :

- Đêm đó sẽ là đêm cực kỳ lạnh.
- Có những cơn gió rất mạnh thổi đến.
- Sẽ có nhiều lo âu và trong chốc lát trận động đất
lớn bắt đầu, toàn trái đất rung chuyển.

Trong nhà con, hãy đóng hết các cửa ra vào và cửa sổ.
Không nói chuyện với bất cứ người nào chưa vào trong nhà.
Không được nhìn ra ngoài, đừng tò mò, bởi vì đó là cơn giận dữ của Đức Chúa.
Hãy đốt những cây nến đã làm phép, bởi vì trong 3 ngày đó không có ánh sáng nào khác.
Sự rung chuyển của trái đất mạnh đến nỗi trục của trái đất sẽ di chuyển từ 20 đến 30 độ, sau đó sẽ trở về vị trí cũ.

Bấy giờ sự tối tăm hoàn toàn bao trùm cả trái đất. Tất cả thần dữ sẽ được thả tự do. Chúng sẽ gây nhiều điều dữ cho các linh hồn không muốn nghe Thông điệp này.

Các linh hồn Kitô giáo được Chúa chúc phúc. Nhớ phải thắp đèn cầy đã được làm phép. Hãy chuẩn bị một bàn thờ có Thánh Giá để liên lạc với Thiên Chúa và Con của Người và để van nài lòng thương xót vô biên của Người. Tất cả đều tối đen.

Bấy giờ, một cây Thánh Giá huyền diệu sẽ xuất hiện trên nền trời, nhắc lại giá trị châu báu mà Con Thiên Chúa đã trả vì yêu thương và cứu rỗi chúng ta.

Trong nhà con, vật duy nhất có thể đem ánh sáng là những cây nến đã được làm phép, mà môt khi đã được thắp lên rồi thì không có gì có thể dập tắt được cho tới khi 3 ngày tối tăm chấm dứt.

Tất cả phải có Nước Thánh trong nhà để rẩy lên các cửa sổ và cửa cái. Chúa sẽ che chở mọi sở hửu của con là những kẻ Ngài đã chọn.

Hãy quỳ xuống trước Thánh Giá đầy quyền uy của Đức Kytô và cầu nguyện sốt sắng. Hãy nói :”- Lạy Chúa, xin tha thứ tội lỗi chúng con. Xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin dẫn đến bên Chúa tất cả các linh hồn, nhất là những linh hồn nào cần đến lòng thương xót của Chúa hơn. Ôi ! Mẹ Maria dịu hiền, xin cầu cho chúng con. Chúng con yêu Mẹ, xin cứu thế giới chúng con.

Những người công chính không được run sợ về bất cứ điều
gì vào Ngày Của Thiên Chúa hành xử.
Trong thời gian con còn được cho phép, người làm thinh sẽ chịu trách nhiệm về những linh hồn bị hư mất do thiếu thông tin. Khi trận động đất ngừng, những người không tin vào Thiên Chúa sẽ chết một cách khủng khiếp. Gió sẽ mang hơi độc gieo rắc khắp nơi, không cho mặt trời lộ diện. Có thể chúng con sẽ sống sót sau cuộc đại họa này. Đừng quên rằng cơn giận dữ của Thiên Chúa là Thánh, và khi đã bắt đầu, các con không được nhìn ra ngoài vì bất cứ lý do nào. Vì Thiên Chúa không muốn con cái của Người thấy khi Người trừng phạt những kẻ tội lỗi cố chấp.

Các con phải hiểu rằng Thiên Chúa sẽ cho phép tất cả những điều này xảy ra. Đức Thánh Cha và các Giám Mục hãy chờ một Thông điệp khác nói về sự thống hối và cầu nguyện. Hãy luôn nhớ rằng Lời Chúa của Thiên Chúa không phải là điều dọa nạt, mà là Tin Mừng.



*********
Xin vui lòng chép lại tin này và gởi đến tất cả những người bạn quen biết để mọi người có cơ hội thống hối và được sống sót sau cơn đại họa..

Chúng ta không biết những người nhận được Thông điệp này sẽ tin hay không tin ?! Nhưng hãy nghĩ rằng nếu Thiên Chúa cho phép thì sự việc sẽ xảy ra, bởi vì Người muốn điều đó. Cho dù người đó theo đạo nào cũng không thoát khỏi.
Nếu bạn không tin vào Thông điệp này hãy gởi cho những người khác,, điều đó không gây cho bạn tốn kém gì, và như thế những kẻ tin sẽ có cơ hội để tự quyết định cho bản thân mình.

Bạn hãy nhớ rằng tất cả mọi điều có thể tránh khỏi nếu mọi người thực hành đúng đắn 10 điều răn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đó là 10 điều răn rất đơn giản, nếu chúng ta có thể thực hành được, thì sẽ nhận được Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa.

Chị Lucia đã qua đời ngày 11 tháng 2 năm 2005. Từ thập niên 20 (tức là từ năm 1920 trở về sau này) người ta đã tiên đoán rằng những lời tiên tri này sẽ được thực hiện sau khi chị Lucia qua đời.-



Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2010

MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR 2011


HAPPY NEW YEAR 2011

Những Cánh Hoa Hồng Trong Đêm Giáng Sinh

Tuyết đang rơi. Hồng Thủy đang ngồi ở khoảng sân sau nhà, em thấy lạnh hơn. Hồng Thủy không mang giày ống cao. Em không thích, mà em cũng chẳng có đôi nào. Chiếc áo khoác mỏng tanh không đủ giữ ấm cho Hồng Thủy. Em lạnh lắm.
Tuyết vẫn không ngừng rơi. Hơn một giờ trôi qua, em nghĩ mãi chưa ra món quà Giáng sinh tặng mẹ. “Ôi, thật là chán. Giờ đây nếu có nghĩ ra mua gì thì mình cũng đâu có tiền mà mua.” Em lắc đầu, mặt buồn rười rượi.
Đã ba năm kể từ khi bố qua đời. Ba năm qua, cả nhà năm miệng ăn đánh vật từng ngày với cuộc sống. Không phải vì mẹ không quan tâm, mà chỉ vì không biết bao nhiêu mới đủ. Mẹ làm cả ca đêm ở bệnh viện, nhưng đồng lương nhỏ bé cũng chỉ đủ chống chọi qua ngày.
Càng thiếu tiền và những thứ khác, cả nhà càng thương yêu và bảo bọc nhau hơn. Cùng với anh chị và một đứa em, Hồng Thùy đảm trách mọi việc nhà khi mẹ vắng. Ba chị em gái của em đã chuẩn bị những món quà Giáng sinh rất dễ thương cho mẹ rồi. Còn Hồng Thủy thì vẫn tay trắng, dù bây giờ đã là đêm Giáng sinh.
Lau vội dòng nước mắt, em đá chân vào tuyết và đi xuống phố, nơi các cửa hiệu đang lấp lánh ánh đèn màu và nhộn nhịp tiếng nhạc Giáng sinh. Một cô bé mười sáu tuổi mồ côi cha, sao giờ đây em thấy rất cần một người để chuyện trò. Nhưng sao khó quá !
Hồng Thủy đi dọc theo các cửa hiệu, nhìn đăm đắm vào những tủ kính được trang trí thật lộng lẫy. Mọi thứ sao mà đẹp đến thế, mà cũng xa tầm tay đến thế! Trời tối dần. Hồng Thủy đành phải quay về nhà. Bỗng mắt nàng bắt gặp một tia sáng nhỏ từ phía chân tường. Hồng Thủy cúi xuống và phát hiện ra đó là một đồng tiền sáng chói.
Giây phút đó, Hồng Thủy như thấy mình là kẻ giàu có hạnh phúc nhất thế gian. Một làn hơi ấm chạy dọc cơ thể. Hồng Thủy chạy nhanh về phía cửa hiệu đầu tiên vừa nhìn thấy lúc nảy. Nhưng rồi lòng phấn khích bỗng tan thành mây khói khi người chủ hiệu bảo rằng sẽ chẳng mua được thứ gì với đồng tiền này.
Hồng Thủy trông thấy một hàng hoa và quyết định bước vào trong chờ tới lượt mình.
“Gì vậy cháu?”, người bán hoa hỏi.
Hồng Thủy chìa đồng xu ra và nói rằng liệu tôi có thể mua một bông hoa làm quà Giáng sinh cho mẹ không ?
Người bán hoa nhìn vào đồng 10 xu. Đặt tay lên vai cô bé, ông trả lời: “Hãy đợi ở đây. Để chú xem chú có thể giúp cháu được gì nhé!”.
Đứng đợi, Hồng Thủy nhìn những bông hoa đầy màu sắc xung quanh. Dù là một cô bé vừa lớn nhưng Hồng Thủy có thể tưởng tượng được rằng mẹ và các chị em gái mình yêu những bông hoa như thế nào.
Tiếng cánh cửa đóng lại của người khách cuối cùng đưa Hồng Thủy trở về với hiện tại. Chỉ còn một mình trong cửa hiệu, em cảm thấy cô đơn và hơi chút lo sợ.
Bỗng người bán hoa xuất hiện, đi tới quầy. Ông lấy lên mười hai bông hồng đỏ thắm, với những cành lá xanh điểm xuyết những chấm hoa trắng li ti, được bó lại với một chiếc nơ bạc thật xinh. Tim Hồng Thủy như lặng đi khi người chủ hiệu đặt bó hoa vào một chiếc hộp màu trắng trong.
“Đây, của cháu đây. Tất cả là 10 xu.” Ông nói rồi chìa tay ra. Hồng Thủy đưa đồng xu một cách rụt rè. Ôi, không biết mình có nằm mơ không đây? Ai lại bán cả một bó hoa tuyệt đẹp thế kia với chỉ 10 xu cơ chứ! Dường như cảm nhận được vẻ lưỡng lự của cô bé, người chủ hàng hoa nói: “Chú đang bán giảm giá mười hai bông 10 xu, cháu có thích chúng không nào?”.
Nghe vậy, Hồng Thủy không còn ngần ngại nữa. Khi chạm tay vào chiếc hộp dài xinh xắn, cô bè mới tin rằng đó là sự thật. Bước ra khỏi hàng hoa, cô bé còn nghe giọng người bán hoa gọi với theo, “Giáng sinh vui vẻ nhé, con gái !”.
Người bán hoa quay vào, cùng lúc vợ ông đi ra. “Chuyện gì vậy anh?”
Nhìn ra ngoài cửa sổ, cố ngăn dòng nước mắt, ông nói: “Một điều kỳ lạ vừa mới xảy ra sáng nay. Em biết không, trong lúc anh sửa soạn mở hàng, anh nghe một giọng nói bảo rằng hãy dành ra một tá hoa hồng để làm một món quà đặc biệt. Rồi mải mê với công việc anh cũng không nhớ tới điều ấy cho lắm; nhưng vừa rồi không biết sao anh lại để mười hai bông hoa sang một bên. Chỉ một vài phút sau, một cô bé gái xinh xắn bước vào và hỏi mua một bông hoa tặng mẹ chỉ với một đồng mười xu. Anh bỗng nhớ lại…..
Đã lâu lắm, khi ấy anh là một thằng bé rất nghèo, không có lấy một đồng mua quà Giáng sinh cho mẹ. Đêm Giáng sinh năm ấy, khi đang lang thang một mình trên đường, anh gặp một người đàn ông xa lạ. Ông ấy ngỏ lời cho anh mười đôla. Đêm nay, khi gặp cô bé này, anh đã biết giọng nói ban sáng là của ai. Và anh đã để lại mười hai bông hoa đẹp nhất.”
Hai người ôm nhau thật lâu. Rồi họ bước ra khỏi nhà trong cái giá rét đêm Giáng sinh. Trời lạnh lắm, nhưng trong lòng họ ấm áp hơn bao giờ.
Nguyễn Thế Hoàng
*****************************************
Chúa ơi, Một mùa Giáng Sinh lại về với vạn vật đất trời, một mùa để “cho” và “nhận”. Xin cho con nghe được tiếng Chúa nói trong tâm hồn như người đàn ông bán hoa trong câu chuyện trên để con biết Chúa Hài Đồng Giêsu đang thực sự cần những món quà gì. Xin cho con biết trao tặng những món quà ý nghĩa trong mùa Giáng Sinh này mà không tính toán thiệt hơn, và cho những nơi mà con không mong được nhận lãnh lại. Amen!







Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2010

Đọc "CHẶNG ĐƯỜNG QUÊ HƯƠNG của Nhà Văn Nguyễn Thế Hoàng

Hôm nay, ngày 9 tháng mười hai, năm 2010
http://www.hvhnvtd.com/

ĐỌC “CHẶNG ĐƯỜNG QUÊ HƯƠNG” CỦA NGUYỄN THẾ HOÀNG
Đinh Lâm Thanh


ĐỌC 'CHẶNG ĐƯỜNG QUÊ HƯƠNG' CỦA NGUYỄN THẾ HOÀNG
* ĐINH LÂM THANH *



Trước đây tôi có dịp may đọc vài truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thế Hoàng, trong số nầy, chuyện ‘Như Hạt Bụi Đời’ đã để lại nhiều ấn tượng cho tôi khi ông viết về nỗi cay đắng của những người vợ các chiến sĩ QLVNCH phải gánh chịu trong thời gian chồng đi tù dưới chế độ cộng sản. Chuyện nầy ông trình bày trong khoảng 40 trang sách. Vai chính là người vợ của một sĩ quan của QLVNCH đang bị tù cộng sản, bà vợ ở nhà đã kiệt sức vì đời sống kinh tế khó khăn nên đã rơi vào tay một tay tên cộng sản và rồi công khai trở thành vợ một của tên cán bộ nầy. Đọc đến đây, tự nhiên tôi thấy tâm hồn chùng xuống, tinh thần hụt hẫng và lòng quặn đau trước hình ảnh một người vợ sĩ quan VNCH, trong một bước cùng nào đó, đã tự nguyện ngã vào tay của một kẻ thù không đợi trời chung.


Tôi ngưng nữa chừng, không dám xem tiếp câu chuyện của Thoa, người vợ sĩ quan với một tên cộng sản gộc…Tác giả đã diễn tả tâm trạng của Thoa như sau : Tình cảm con người thường bị chi phối và biến chuyển trong tầm mức suy diễn. Thực tế và mơ mộng cuốn hút nhau, quấn quýt rồi quật ngã trong những lúc mềm lòng yếu đuối. Hai mươi ngày vắng Tạo (cán bộ cộng sản), Thoa cảm thấy bồn chồn mong nhớ. Tình cảm manh nha đang như có những lối rẽ. Thời gian như phương tiện huyền diệu đủ phân tích lý lẽ đẻ đắn đo cân nhắc theo đòi hỏi nhu cầu cuộc sống dần dần nghiêng ngả về thực tế. Mà cuộc sống bây giờ là cơm, áo, gạo, tiền..

Đúng ra, nhà văn Nguyễn Thế Hoàng có lý khi bào chữa cho hoàn cảnh của Thoa lúc bấy giờ, nhưng riêng tôi, thì khó chấp nhận một sự đổi chiều tình cảm và phản bội chồng một cách dễ dàng để chấp nhận sống chung với tên cộng sản không đội trời chung…nếu đem trường hợp nầy đối chiếu với phong tục, đạo đức và lễ giáo của người đàn bà Việt Nam. Nhưng tôi đã lầm sau khi đọc xong cốt truyện, tác giả dụng ý đưa ra những lỗi lầm của người đàn bà Việt Nam, vợ một sĩ quan đi tù cộng sản không ngoài mục đích để đề cập đến hai vấn đề khác.

Đó là chủ trương của đảng cộng sản nhằm phá hoại gia phong, tình cảm và gia đình sĩ quan chế độ cũ. Chúng nhắm vào những người vợ cô đơn bất hạnh trong lúc chồng thuộc thành phần quân-cán-chính VNCH đang bị chúng lùa vào vòng tù tội (xin ghi nhận lời thú tội của Tạo, tên cán bộ cộng sản đã chứng minh chủ trương khốn nạn của cộng sản Hà Nội qua câu nói với Thoa : Anh chiếm đoạt được em hôm nay nghĩa là anh hoàn thành nhiệm vụ….).

Hơn nữa, đây cũng là thông điệp mà tác giả muốn gởi đến toàn thể dân chúng miền Bắc, nhất là tập đoàn cai trị để chúng thấy được tính nhân bản, tình người, sự hiểu biết, trình độ văn hóa và tinh thần vị tha của người sĩ quan QLVNCH là thế nào qua thái độ của Định, người chồng ra tù trở về đoàn tụ với gia đình, đã sẵn sàng tha thứ mặc dù vợ đã vi phạm một lỗi lầm lớn. (Lời của Định nói với vợ ngay trong giây phút tái ngộ : Do hoàn cảnh ngoài ý muốn, anh không buộc em điều đó. Điều mong muốn của chúng ta nhờ ơn Trên phù hộ chúng ta vẫn còn sống sót để có ngày gặp nhau hôm nay…)

Có phải đây là thông điệp của tác giả muốn nhấn mạnh đến tinh thần vị tha của những chiến sĩ VNCH trước những cảnh đau lòng mà chính vợ con họ đã vấp phải và biết hối cải ăn năn để làm bài học cho bọn cộng sản vô gia đình ? Theo tôi, đây là một lối dựng truyện có sáng tạo, có đích, có hồn, là hình thức tuyên truyền chống chế độ cộng sản đồng thời nêu cao tinh thần của người lính Miền Nam. Một lối tuyên truyền rất hữu hiệu, không cần kèn không cần trống nhưng sẽ âm thầm ảnh hưởng vào tâm trí đối với những ai còn một chút lương tri hiện đang sống dưới chế độ cộng sản.

Từ sau ngày đọc Như Hạt Bụi Đời, tôi ao ước có dịp để học hỏi thêm ở Nguyễn Thế Hoàng lối dựng chuyện, đồng thời theo chân ông dùng văn chương làm phương tiện truyền thông để góp phần đối đầu với âm mưu văn hóa vận của cộng sản.

Đến hôm nay, tôi có được ấn phẩm đầu tay của Nguyễn Thế Hoàng, do chính ông xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2007. Sách gồm 16 tiết mục, lấy những dữ kiện của chính cá nhân, gia đình hay bạn bè để viết ra dưới nhiều dạng từ truyện ngắn, bút ký, tạp ghi và kịch ngắn. Sách trình bày trong 345 trang với tựa đề ‘Chặng Đường Quê Hương’. Tôi dành thời gian khá dài để đọc hết tác phẩm nầy và hai truyện đầu trong tác phẩm đã gây nhiều ấn tượng trong tôi :

Mở đầu tuyển tập là truyện Chặng Đường Quê Hương, trong đó, vai chính có thể là tác giả, ông kể lại một chuyến trở về thăm làng cũ sau mười ba năm sống nơi đất khách quê người. Trở lại quê hương không đua đòi theo kiểu áo gấm về làng hay đi tìm của lạ và trả thù đời. Ông không thuê xe hơi để bóp còi inh ỏi ngay từ lúc vào làng, cũng không trưởng giả, dán thông cáo ‘Giờ trưa Việt kiều không tiếp khách’ trước cổng để cấm cửa bà con xa gần là không được quấy rầy giấc ngủ trưa ! Bước chân xuống máy bay, ông khép mình giản dị như một người dân quê địa phương và đi tìm gia đình người thân ở Láng Don, một ngôi làng hẻo lánh cách xa thị xã Phan Rang trên năm cây số. Ở đó, ông chia sẻ với gia đình người chị cùng xóm làng trong tình thân ruột thịt của người đồng hương, không màu mè, không khoe khoang, không dỗm đời của kẻ mới có tiền bắt chước học thói làm sang…
Ngoài hai truyện như đã trình bày ở trên, còn lại, ông thường mượn hình ảnh người đàn bà và bối cảnh xã hội Việt Nam sau ngày mất nước cũng như những gia đình may mắn ra đi để làm đề tài cho nội dung tập truyện. Tôi nghĩ rằng đây là chủ ý của ông để vinh danh người đàn bà Việt đồng thời nói lên thân phận con người trước và sau khi cộng sản chiếm xong miền Nam…cũng như những gia đình đã may mắn ra được nước ngoài nhưng lòng vẫn khắc khoải nhớ về quê hương.
Tác giả đưa ra nhiều khuôn mặt của hai thành phần đàn bà Nam và Bắc (Vợ sĩ quan QLVNCH và nữ cán bộ cộng sản vào chiếm miền Nam) để trình bày cùng độc giả qua các truyện, vài ví dụ điển hình :

- Con Đường Phía Trước : Trong 25 trang giấy, tác giả nêu lên trách nhiệm làm vợ làm mẹ thật hoàn hảo của một người vợ Quân-Cán-Chính thuộc chế độ cũ nuôi con trong lúc người chồng là sĩ quan Cảnh sát không có ngày về sau khi bị còng tay vào nhà tù cộng sản. Người vợ của các chiến sĩ VNCH một lòng chung thủy, vượt qua bao nhiêu sóng gíó và chờ đợi… Đây là gương sáng của người đàn bà Miền Nam, có học, có giáo dục gia đình cần phải vinh danh cho các thế hệ con cháu mai sau noi theo.

- Chị Út Quắn : Một thường dân nghèo nàn vô tội, không liên hệ gì với chế độ cũ, nhưng chỉ vì một miếng đất hương hỏa mà đảng cộng sản vẫn không bỏ sót. Chúng ngang nhiên buộc tội nạn nhân để cướp đất rồi tống đi vùng kinh tế. Đây là một trong hàng triệu trường hợp tương tự, cộng sản cướp của từ Nam ra Bắc và bất chấp khiếu nại của nạn nhân.
- Đổi Đời : Chuyện một nữ cán bộ cộng sản, sau 1975 đã tận tình vơ vét tìền của người dân và tài sản của Miền Nam. Trở thành tỷ phú thì kiếm đường chạy ra nước ngoài để theo phồng vinh giả tạo và kiếm những tên đầu trộm đuôi cướp ngày trước nhằm tìm nơi nương tựa cho tấm thân già.
Ngoài ra, một số truyện khác, ở trong đó, tác giả muốn gởi đến độc giả tình cảm của những người bỏ nước ra cũng như những người định cư nước ngoài qua các truyện :

- Vui buồn trong chuyến đi : Tác giả gởi đến độc giả hoạt cảnh nôn nóng của những người từ địa ngục sắp lên thiên đường ở tại khu công viện đối diện sở Ngoại Vụ Sàigòn còn gọi là ‘trung tân trao đổi tin tức’. Nơi đây tập trung những người đến để làm thủ tục xuất ngoại với những cảnh đau lòng cũng như cười ra nước mắt. Cám ơn tác giả đã cho chúng ta hiểu được phần nào tâm trạng và hoàn cảnh của những người sẽ được xuất ngoại công khai, từ đây độc giả có thể cảm thông với những người bạn cùng cảnh ngộ, nhất là đối với anh em HO của chúng ta.

- Bữa Cơm Chiều Cuối Năm : Một vài nét để cho những người nước ngoài cũng như giới trẻ hải ngoại hiểu được thế nào về ba chữ kinh tế mới. Đây là một âm mưu bóc lột, chiếm nhà đất rồi xua đuổi thành phần Quân-Cán-Chánh trước kia đi đến những vùng khỉ ho cò gáy, sống chết bỏ mặc, miễn là chúng chiếm được nhà đất, của cải của những gia đình có liên hệ với chế độ cũ. Các hoạt cảnh cũng chứng minh cho thề giới hay rằng, âm mưu kinh tế mới là một hình thức đem con bỏ chợ, đọa đày nhằm trả thù thành phần thuộc VNCH của bọn cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Và cuối cùng tác giả không quên ghi tâm tư của những người đã sống ở Mỹ nhưng vẫn luôn nhớ đến VN qua các truyện Mùa Xuân Trong Trái Tim, Quê Hương Thương Nhớ, Một Thoáng Hương Xưa và v.v…. Đặc biệt, để chấm dứt tuyển tập, ông Nguyễn Thế Hoàng gởi đến độc giả một vở kịch thơ ngắn với tựa đề : Cộng Sản Đổ Rồi Bà Con Ơi !

Tóm lại lời văn Nguyễn Thế Hoàng trong sáng, chân thật và bình dị. Những yếu tố nầy giúp độc giả dễ cảm thông khi đọc văn của ông. Nhưng ông không phải là một người thợ, chỉ có sở trường sắp chữ để trở thành nhà văn, mà tất cả cố gắng của ông đều được cân nhắc, lựa chọn, gột rửa để diễn tả từ sự việc cho đến ý nghĩ, không ngoài mục đích gởi đến bạn đọc những suy tư thầm kín và một lý tưởng sắt đá của một cựu sĩ quan QLVNCH sau mười năm nín thở qua sông trong các trại tù của Việt cộng.

Có thể nói rằng tất cả người Việt đều mang sẵn nguồn văn thơ từ trong máu huyết. Một lúc nào đó hoặc một động lực nào đó sẽ tạo cơ hội cho cảm hứng chín mùi rồi tự nhiên biến thành thơ văn, do đó, chúng ta thường thấy đa số người Việt hải ngoại đều trở thành những văn nghệ sĩ. Nhưng muốn tránh trở thành thợ ghép vần hoặc sắp chữ thì Thơ phải sâu sắc và có hồn. Văn phải có chiều sâu và sáng tạo… Như vậy, theo tôi, trong số những người thành công trên văn đàn hải ngoại, độc giả thấy có tên ông Nguyễn Thế Hoàng.-
Đinh Lâm Thanh
(Paris, Mùa Noël 2010)


·